Hoàn thiện quy định pháp luật về tuyển dụng công chức bảo đảm tính thống nhất, khách quan, minh bạch.
(QLNN) – Tuyển dụng
nhân sự có ý nghĩa rất quan trọng trong việc lựa chọn những người ưu tú, thực
sự xứng đáng và phù hợp với yêu cầu công việc. Tuyển dụng công chức được hiểu
là việc lựa chọn và chấp nhận một người tự nguyện gia nhập vào công vụ sau khi
đã xác nhận người đó có đủ tiêu chuẩn và điều kiện cho một vị trí công việc
nhất định trong nền công vụ. Tuyển dụng công chức nếu không bảo đảm tính khách
quan, minh bạch và bình đẳng sẽ không thể xây dựng được đội ngũ công chức có đủ
phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát
triển của đất nước.
Thực trạng tuyển dụng
công chức ở Việt Nam theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008
Việc tuyển dụng công
chức (TDCC) ở Việt Nam được thực hiện ngày càng đồng bộ, các cơ quan, tổ chức
đã căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, tiêu chuẩn chức danh và chỉ tiêu biên chế để
xây dựng kế hoạch TDCC theo chức danh công chức và tổ chức tuyển dụng theo quy
định.
Hình thức, nội dung
thi tuyển ngày càng chú trọng nhiều hơn về chuyên môn, nghiệp vụ, bảo đảm lựa
chọn được những người có phẩm chất, trình độ, năng lực phù hợp với vị trí cần
tuyển. Công tác tuyển dụng về cơ bản bảo đảm các nguyên tắc công khai, minh
bạch, đúng pháp luật, bảo đảm tính cạnh tranh, tăng cường ứng dụng công nghệ
thông tin trong thi tuyển và có chính sách ưu tiên tuyển chọn người có tài
năng, trẻ tuổi, người dân tộc thiểu số.
Tuy nhiên, bên cạnh
những ưu điểm thì quy định pháp luật và quá trình tổ chức thực hiện TDCC vẫn
còn những hạn chế, cụ thể như sau:
Thứ nhất, Luật Cán bộ,
công chức quy định căn cứ
TDCC là nhu cầu công việc, vị trí việc làm (VTVL) và chỉ tiêu biên chế được
giao nhưng khó được thực hiện triệt để trong thực tiễn.
Theo quy định, việc
xác định chức danh, tiêu chuẩn, VTVL và chỉ tiêu biên chế được giao được coi là
vấn đề cốt lõi để tuyển dụng đúng người, đúng việc. Tuy nhiên, hiện nay đa số
các cơ quan hành chính chưa có các bản mô tả công việc để xác định chức danh,
tiêu chuẩn, yêu cầu đối với từng VTVL nên công tác tuyển dụng theo VTVL còn
lúng túng.
Việc xác định VTVL và
cơ cấu ngạch công chức còn gặp nhiều khó khăn, thiếu văn bản hướng dẫn của các
bộ chuyên ngành. Các hội đồng tuyển dụng gặp nhiều khó khăn khi ra đề thi
chuyên môn, nghiệp vụ do có nhiều VTVL khác nhau. Do chưa có các bản mô tả công
việc nên việc xây dựng ngân hàng đề thi rất khó khăn, dẫn đến khó đánh giá
chính xác năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của người dự tuyển có phù hợp với vị
trí cần tuyển hay không.
Việc TDCC hiện gắn với
chỉ tiêu biên chế (chỉ phù hợp với cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây)
nhưng không còn phù hợp với yêu cầu của nền hành chính hiện đại, năng động. Cơ
quan sử dụng công chức không có quyền quyết định việc tuyển dụng thêm người mới
dựa trên nhu cầu công việc nếu không được phân bổ chỉ tiêu biên chế.
Một vấn đề khác là,
việc cấp phát ngân sách cho chi thường xuyên trong các cơ quan nhà nước vẫn dựa
trên số lượng biên chế, do đó, các cơ quan luôn có xu hướng xin nhiều chỉ tiêu
biên chế, thậm chí vượt hơn nhiều so với nhu cầu thực tế của họ. Ngược lại, một
số sở, ngành, Ủy ban nhân dân cấp huyện được bổ sung nhiệm vụ nhưng chưa được
bổ sung biên chế.
Thứ hai, quy định tuyển dụng theo quy trình thi tuyển
hoặc xét tuyển hiện nay còn một số hạn chế, chưa có độ “mở” cần thiết để có thể
tuyển dụng được đúng người phù hợp với công việc, đặc biệt là trong công tác
tuyển dụng, thu hút nhân tài, tạo cơ chế liên thông giữa nguồn nhân lực ở khu
vực công và khu vực tư; cơ chế cạnh tranh theo VTVL để nâng cao chất lượng đội
ngũ công chức.
Thứ ba, cách thức ra đề thi, nội dung thi và hình
thức thi như hiện nay khó đánh giá được thực chất năng lực ứng viên.
Cách ra đề thi chủ yếu
chú trọng đến việc kiểm tra trí nhớ của ứng viên thông qua việc trình bày các
quy định của pháp luật mà chưa đặt ra các câu hỏi để đánh giá khả năng suy
luận, phân tích, tổng hợp, nhất là chưa đánh giá được các kỹ năng chuyên ngành
cần có đối với ngạch, vị trí dự tuyển.
Những hạn chế về hình
thức thi và cách thức ra đề thi, nội dung thi tuyển chưa thực sự phù hợp với
từng loại công chức ở từng ngành, lĩnh vực, đặc biệt chưa có những nội dung thi
riêng cho từng nhóm vị trí công việc tương ứng, do đó kết quả thi tuyển công
chức thời gian qua chưa thực sự phản ánh chính xác khả năng làm việc trong
tương lai của công chức.
Thứ tư, về quy trình thi tuyển, xét tuyển công
chức.
Trước đây ở Việt Nam,
đối với các vị trí công việc dù đơn giản hay phức tạp đều áp dụng một quy trình
thi tuyển như nhau. Sau khi trúng tuyển, công chức được bổ nhiệm vào ngạch chứ
không phải vào VTVL cụ thể, trong quá trình làm việc công chức có thể chuyển từ
vị trí này sang vị trí khác thông qua một quyết định hành chính.
Để đổi mới quy trình
thi tuyển công chức và bảo đảm tính chuyên môn hóa cao, Nghị định số
161/2018/NĐ-CP ngày 29/11/2018 của Chính phủ quy định quy trình 2 vòng thi, cụ
thể như sau:
Vòng 1: thi trắc
nghiệm trên máy tính về kiến thức chung, ngoại ngữ và tin học.
Nội dung thi trắc
nghiệm gồm 3 phần: kiến thức chung 60 câu hỏi về hệ thống chính trị, tổ chức bộ
máy của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội; quản lý hành chính nhà
nước; công chức, công vụ; chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước về ngành, lĩnh vực tuyển dụng; chức trách, nhiệm vụ của công chức
theo yêu cầu của VTVL dự tuyển. Thời gian thi là 60 phút.
Phần ngoại ngữ với 30
câu hỏi là một trong năm thứ tiếng Anh, Nga, Pháp, Đức, Trung Quốc hoặc ngoại
ngữ khác theo yêu cầu của VTVL do người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền TDCC
quyết định. Thời gian thi 30 phút.
Phần thi tin học gồm
30 câu hỏi theo yêu cầu của VTVL. Thời gian thi 30 phút. Trường hợp tổ chức thi
trên máy vi tính thì nội dung thi trắc nghiệm không có phần thi tin học.
Thi vòng 1 được xác
định theo số câu trả lời đúng cho từng phần thi quy định nêu trên, nếu trả lời
đúng từ 50% số câu hỏi trở lên cho từng phần thi thì người dự tuyển được thi
tiếp vòng 2.
Vòng 2: thi môn nghiệp
vụ chuyên ngành.
Nội dung thi kiến
thức, năng lực, kỹ năng thực thi công vụ của người dự tuyển công chức theo yêu
cầu của VTVL cần tuyển dụng. Trong cùng một kỳ thi tuyển, nếu có các VTVL yêu
cầu chuyên môn, nghiệp vụ khác nhau thì cơ quan có thẩm quyền TDCC tổ chức xây
dựng các đề thi môn nghiệp vụ chuyên ngành khác nhau bảo đảm phù hợp với yêu
cầu của VTVL cần tuyển.
Hình thức thi nghiệp
vụ chuyên ngành là thi phỏng vấn hoặc thi viết. Người đứng đầu cơ quan có thẩm
quyền TDCC quyết định hình thức thi phỏng vấn hoặc thi viết. Thời gian thi
phỏng vấn 30 phút, thi viết 180 phút.
Đối với xét tuyển công
chức, được thực hiện theo 2 vòng:
Vòng 1: Kiểm tra điều
kiện, tiêu chuẩn của người dự tuyển theo yêu cầu của VTVL tại Phiếu đăng ký dự
tuyển.
Vòng 2: Phỏng vấn để
kiểm tra về năng lực và trình độ chuyên môn.
Tuy nhiên, để thực
hiện quy trình này một cách hiệu quả trên thực tế, cần quy định rõ cách thức
thực hiện và trách nhiệm của cơ quan chuyên trách, thống nhất thực hiện vòng 1
trên phạm vi cả nước.
Thứ năm, trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách
pháp luật về TDCC vẫn còn có những sai phạm tại một số bộ, ngành, địa phương,
chưa thực sự tuyển dụng được người đáp ứng được các yêu cầu của VTVL… gây ra
những bức xúc trong dư luận xã hội trong thời gian vừa qua.
Hoạt động mang tính
kiểm định chất lượng đầu vào chủ yếu do các bộ, ngành, địa phương tuyển dụng
thực hiện trên cơ sở đánh giá hồ sơ, văn bằng, chứng chỉ mà chưa có hoạt động
sát hạch, sàng lọc thí sinh trước khi đánh giá năng lực chuyên môn. Thí sinh
buộc phải tham dự đầy đủ các môn thi theo yêu cầu của kỳ thi, dù có thể đã bị
trượt các môn điều kiện.
Các nội dung thi về
kiến thức chung, ngoại ngữ, tin học được đánh giá đồng thời với nội dung thi
tuyển về kiến thức, kỹ năng chuyên môn, vì vậy, có sự chênh lệch về năng lực
thí sinh. Nhiều thí sinh không có đủ điều kiện, nền tảng kiến thức, kỹ năng cần
thiết vẫn tham dự kỳ thi TDCC dẫn đến lãng phí nguồn lực tổ chức kỳ thi, lãng
phí thời gian và cơ hội lựa chọn nghề nghiệp phù hợp hơn với thí sinh.
Việc thực hiện đúng
quy định mới về nội dung và hình thức tuyển dụng còn nhiều vướng mắc, khó bảo
đảm chất lượng và dễ nảy sinh tiêu cực nếu không có cơ quan tuyển dụng độc lập,
thống nhất trên phạm vi cả nước với sự kiểm soát chặt chẽ của Bộ Nội vụ.
Thứ sáu, quá trình thực hiện cho thấy các quy định
hiện hành vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về tuyển chọn và sử dụng nguồn nhân lực
chất lượng cao của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị. Các quy định
về thu hút nhân tài chủ yếu mới chỉ ưu tiên về tuyển dụng đầu vào mà chưa tạo
cơ chế, môi trường làm việc độc lập, cạnh tranh, sáng tạo để người tài có điều
kiện phát huy tài năng, sở trường trong công tác.
Thứ bảy, hiện nay, khung thể chế chưa có những
quy định cụ thể về chế tài đối với các cơ quan không thực hiện đầy đủ các quy
định về bình đẳng giới trong công vụ nói chung và trong TDCC nói riêng. Các quy
định về bình đẳng giới thường mang tính định hướng, khuyến khích nhiều hơn là
những ràng buộc, những quy định bắt buộc phải thực hiện.
Chính vì vậy, vẫn còn
một số cơ quan, trong thông báo tuyển dụng nêu rõ ưu tiên tuyển dụng nam hoặc
ưu tiên nữ ở một số vị trí tuyển dụng. Điều này vô hình trung dẫn đến giới tính
trở thành rào cản trong việc gia nhập công vụ. Bên cạnh đó, nếu như nữ là một
đối tượng ưu tiên trong tuyển dụng viên chức thì trong TDCC, nữ không thuộc
nhóm đối tượng ưu tiên. Ở góc độ nào đó thể hiện sự bình đẳng nhưng ở một góc
nhìn khác là sự cào bằng hơn là sự bình đẳng.
Kiến nghị hoàn thiện quy
định pháp luật nhằm bảo đảm tính thống nhất, khách quan, minh bạch trong tuyển
dụng công chức
Sau hơn 9 năm thực
hiện Luật Cán bộ, công chức, đặc biệt trong bối cảnh thực
hiện Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015 và chủ trương của Đảng tại các Nghị
quyết của Hội nghị Trung ương 4, 5, 6 và 7 (khóa XII) thì một số quy định
của Luật Cán bộ, công chức đã bộc lộ những bất cập, cần nghiên
cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, đồng bộ với các quy định mới của Đảng. Do
đó, cần hoàn thiện quy định pháp luật nhằm bảo đảm tính thống nhất, khách quan,
minh bạch trong TDCC, cụ thể như sau:
Một là, xem xét sửa đổi Luật Cán bộ, công
chức theo hướng cụ thể, chi tiết hơn, giảm bớt số lượng nghị định,
thông tư hướng dẫn và quy định chi tiết. Bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất giữa
quy định của Luật Cán bộ, công chức với quy định trong hệ
thống văn bản của Đảng và Nhà nước; bảo đảm tính thống nhất, liên thông giữa
quy định về tuyển dụng với các quy định về quy hoạch, bổ nhiệm công chức, đánh
giá công chức; bảo đảm thống nhất với quy định của Luật Tổ chức Chính
phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các luật khác có liên
quan.
Hai là, sửa đổi, bổ sung quy định về phương thức
tuyển dụng thông qua thi tuyển hoặc xét tuyển. Hình thức, nội dung thi tuyển và
xét tuyển công chức phải phù hợp với yêu cầu VTVL trong từng ngành, nghề, bảo
đảm lựa chọn được những người có phẩm chất, trình độ và năng lực.
Văn bản quy phạm pháp
luật cần quy định rõ các trường hợp đặc biệt được xét tuyển để bảo đảm tính
thống nhất trên cả nước trong thực hiện quy định về tuyển dụng, cụ thể được áp
dụng cho các trường hợp sau: cam kết tình nguyện làm việc từ 5 năm trở lên ở
miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có
điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán
bộ khoa học trẻ trong diện thu hút, tạo nguồn; người có tài năng.
Ba là, sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền TDCC
theo hướng giữ nguyên thẩm quyền tuyển dụng của các cơ quan theo quy định trước
đây; bổ sung thẩm quyền đối với tổ chức độc lập do Chính phủ hoặc Thủ tướng
Chính phủ thành lập thống nhất kiểm định chất lượng đầu vào công chức trên phạm
vi cả nước.
Bốn là, quy định thống nhất kiểm định chất lượng đầu
vào công chức đối với các môn kiến thức chung, ngoại ngữ, tin học (vòng 1)
trước khi các cơ quan có thẩm quyền TDCC lựa chọn, TDCC (vòng 2).
Nghị quyết số 26-NQ/TW
ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII)
về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đầy đủ
phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ đã định hướng về việc tiếp
tục đổi mới công tác tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển
cán bộ: “Thống nhất việc kiểm định chất lượng đầu vào công chức để các địa
phương, cơ quan, đơn vị lựa chọn, tuyển dụng theo yêu cầu, nhiệm vụ; đồng thời,
nghiên cứu phân cấp kiểm định theo lĩnh vực đặc thù và theo vùng, khu vực”.
Việc quy định thống
nhất kiểm định chất lượng đầu vào có ý nghĩa rất quan trọng, biểu hiện cụ thể
như sau:
(1) Tổ chức tuyển dụng
theo hình thức kiểm định, chất lượng đầu vào tập trung, thống nhất sau đó kiểm
định về chuyên môn sẽ góp phần công khai, minh bạch trong công tác tuyển dụng,
góp phần lựa chọn được chính xác những người thực sự có năng lực, phù hợp yêu
cầu công việc để làm việc trong các cơ quan nhà nước.
(2) Bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của các cá nhân khi tham gia TDCC, nhất là bảo đảm sự bình đẳng về
cơ hội việc làm cho các cá nhân.
(3) Góp phần nâng cao
chất lượng đội ngũ công chức thông qua tuyển dụng: bảo đảm những công chức
trúng tuyển sẽ là những người đáp ứng các điều kiện cần thông qua kiểm định
kiến thức chung và có kiến thức, kỹ năng chuyên sâu, đáp ứng yêu cầu, vị trí
công việc thông qua kiểm định sát hạch chuyên môn.
(4) Khắc phục sự phân
tán trong tuyển dụng, hạn chế tiêu cực trong mô hình TDCC hiện tại, tăng tính
thống nhất, khách quan, tính công bằng lựa chọn các ứng viên có năng lực nền
tảng cơ bản trước khi được đánh giá về năng lực chuyên môn theo yêu cầu VTVL.
(5) Việc thống nhất
kiểm định chất lượng đầu vào không làm phát sinh các môn thi cũng như không
phát sinh thêm thủ tục hành chính.
Để bảo đảm thực hiện
thống nhất kiểm định chất lượng đầu vào công chức, Luật Cán bộ, công
chức và các văn bản hướng dẫn chi tiết nên quy định rõ: căn cứ vào kết
quả kiểm định kiến thức chung, cơ quan quản lý công chức (bộ, ngành, địa
phương) tiến hành tổ chức thi kiến thức, kỹ năng chuyên sâu (chuyên môn, nghiệp
vụ) để tuyển chọn những người phù hợp với VTVL cần tuyển dụng. Đối với trường
hợp xét tuyển sẽ quy định cụ thể trong Nghị định không yêu cầu thực hiện kiểm
định chất lượng đầu vào trước khi xét tuyển, bởi vì đây là những trường hợp thu
hút đặc biệt.
Về cơ quan thực hiện
kiểm định chất lượng đầu vào, căn cứ vào tình hình thực tế, Chính phủ quy định
việc thống nhất giao cho một tổ chức độc lập, thực hiện kiểm định thống nhất
đối với công chức trong hệ thống chính trị từ trung ương cho tới địa phương. Cơ
quan này nên trực thuộc Bộ Nội vụ, có năng lực trong nghiên cứu khoa học và đào
tạo về hành chính, có kinh nghiệm trong ra đề thi, tổ chức thi, chấm thi đối
với các kỳ tuyển dụng, nâng ngạch quốc gia. Điều này vừa bảo đảm việc kiểm định
chất lượng đầu vào công chức được khách quan, minh bạch, bình đẳng, giảm thiểu
tiêu cực (nếu có) vừa bảo đảm sự quản lý thống nhất của cơ quan quản lý nhà
nước.
Chính phủ cần quy định
rõ trình tự, cách thức, thủ tục thực hiện và trách nhiệm của cơ quan chuyên
trách, thống nhất thực hiện vòng 1 trên phạm vi cả nước.
Năm là, đổi mới hình thức TDCC để thực sự gắn với
VTVL. Quy định giao Bộ Nội vụ xây dựng ngân hàng đề thi môn kiến thức chung,
môn nghiệp vụ chuyên ngành cho từng VTVL, môn ngoại ngữ và tin học. Ứng dụng
công nghệ thông tin trong công tác tuyển dụng, chuyển từ thi viết sang thi trên
máy tính, công khai thông tin, tạo thuận lợi cho nhân dân tham gia giám sát. Bộ
Nội vụ phối hợp với bộ quản lý ngành, lĩnh vực xây dựng ngân hàng đề thi môn
nghiệp vụ chuyên ngành. Nội dung thi phải gắn với chuyên ngành của vị trí dự
tuyển, có những câu hỏi mở.
Sáu là, sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền
quyết định biên chế cán bộ, công chức của Luật Cán bộ, công chức để thống nhất
với quy định được sửa đổi tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết
số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7 (khóa XII) về tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đầy đủ phẩm chất, năng lực
và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
2. Bộ Nội vụ. Báo cáo số 4201 ngày 26/8/2018 tổng kết thi hành Luật Cán
bộ, công chức (2010 – 2017).
3. Nguyễn Thị Hồng Hải. Một số vấn đề về đổi mới tuyển dụng công chức ở
Việt Nam. Tạp chí Tổ chức nhà nước, tháng 02/2017.
4. Nguyễn Thị Hồng Hải, Nguyễn Thị Thanh Thủy. Một số vấn đề về thi
tuyển chức danh lãnh đạo, quản lý trong khu vực công. Tạp chí Quản lý nhà
nước, tháng 8/2013.
5. Trần Anh Tuấn. Vấn đề bình đẳng giới trong quá trình tiếp tục cải
cách chế độ công vụ, công chức. Tạp chí Tổ chức nhà nước, tháng 8/2008.
PGS.TS.
Hoàng Mai
Học viện Hành chính Quốc gia
Theo Tạp chí Quản lý nhà nước (Link bài gốc)
Văn phòng Sở